Bối cảnh Hải chiến ngoài khơi Samar

Chiến lược tổng thể của Nhật Bản tại Vịnh Leyte - được biết qua mật danh Shō-Go 1 - là dùng Lực lượng phương Bắc của Phó Đô đốc Jisaburō Ozawa nhằm dụ Đệ Tam Hạm đội của Hoa Kỳ ra khỏi khu vực các bãi đổ bộ của Đồng minh lên Leyte, bằng cách sử dụng lực lượng các hàng không mẫu hạm của Nhật Bản làm mồi nhử. Lực lượng đổ bộ, khi mất đi Hạm đội 3 cùng bức màn phòng thủ trên không, sau đó sẽ bị tấn công từ phía tây và nam bởi Lực lượng Trung tâm của Phó Đô đốc Takeo Kurita, lực lượng này sẽ xuất kích từ Brunei và Lực lượng phía Nam của Phó Đô đốc Shoji Nishimura. Lực lượng Trung tâm của Kurita, với 5 thiết giáp hạm, bao gồm YamatoMusashi - những thiết giáp hạm lớn nhất từng được chế tạo, được hộ tống bởi các tuần dương hạm và khu trục hạm. Đội tàu của Nishimura bao gồm 2 thiết giáp hạm và được theo sau bởi đội tàu của Phó Đô đốc Kiyohide Shima với 3 tuần dương hạm.

Vào đêm ngày 23 tháng 10, các tàu ngầm Dace và Darter của Mỹ đã phát hiện ra Lực lượng Trung tâm đang tiến vào hành lang Palawan. Sau khi báo động cho Halsey, các tàu ngầm đã phóng ngư lôi và đánh chìm 2 tuần dương hạm, đồng thời làm hư hại chiếc thứ 3 và buộc nó phải rút lui. 1 trong những tuần dương hạm bị mất là kỳ hạm của Đô đốc Kurita, nhưng ông đã được vớt khỏi mặt nước và chuyển cờ hạm của mình sang Yamato.

Các mẫu hạm của Hạm đội 3 đã tiến hành 1 loạt các cuộc không kích nhằm vào lực lượng của Kurita trên biển Sibuyan, làm hư hại 1 số tàu và đánh chìm Musashi, ban đầu buộc Kurita phải rút lui. 1 tốp sóng máy bay từ Hạm đội 3 cũng tấn công Lực lượng phía Nam của Nishimura, chỉ gây thiệt hại nhẹ. Cùng lúc đó, Phó Đô đốc Takijirō Ōnishi đã tiến hành các cuộc tấn công từ các sân bay trên Luzon chống lại lực lượng của Halsey, với 1 máy bay ném bom đã trúng mẫu hạm hạng nhẹ Princeton, khiến con tàu bị hư hại rất nặng và chìm sau những nỗ lực cứu vớt không thành.

Cùng đêm đó, Lực lượng phía Nam của Nishimura gồm 2 thiết giáp hạm, 1 tuần dương hạm hạng nặng và 4 khu trục hạm sẽ tiếp cận từ phía nam và sẽ phối hợp với lực lượng của Kurita. Thành phần thứ 2 của Lực lượng phía Nam, do Phó Đô đốc Kiyohide Shima chỉ huy, bao gồm 3 tuần dương hạm và 7 khu trục hạm, đã tụt lại phía sau Nishimura đến 74 km. Trong trận chiến ở eo biển Surigao, tàu của Nishimura đã lọt vào 1 cái bẫy đã được người Mỹ dang sẵn từ trước. Bị Lực lượng Hỗ trợ thuộc Đệ Thất Hạm đội Hoa Kỳ áp đảo hoàn toàn, họ chịu thương vong rất nặng, bị 1 loạt ngư lôi từ 28 tàu PT và 28 khu trục hạm tấn công trước khi phải hứng chịu những phát pháo chính xác từ 6 thiết giáp hạm (5 trong số chúng sống sót sau cuộc đột kích Trân Châu Cảng) và 8 tuần dương hạm. Sau đó, khi lực lượng của Shima hội quân với những gì còn lại của của Nishimura, họ cũng bị người Mỹ tấn công, nhưng may mắn rút lui được. Trong số 7 tàu ban đầu của Nishimura, chỉ có 1 khu trục hạm sống sót.

Trong trận chiến tại biển Sibuyan, Hạm đội 3 của Halsey đã tấn công Lực lượng Trung tâm của Kurita. Lực lượng này đã bị phát hiện khi đang trên đường đến vị trị neo đậu của các lực lượng đổ bộ của người Mỹ từ phía bắc. Lực lượng Trung tâm không có bất kỳ sự hỗ trợ nào trên không để chống lại 259 máy bay từ 5 hàng không mẫu hạm Intrepid, Essex, Lexington, Enterprise, Franklin, và mẫu hạm hạng nhẹ Cabot. Cuộc tấn công tổng lực này đã đánh chìm thiết giáp hạm Musashi với 17 quả bom và 19 quả ngư lôi.[3] Dù bị tấn công liên tục và chịu thiệt hại nặng nề, nhưng ngay cả lực lượng áp đảo đó cũng không thể ngăn cản được Kurita, vì hầu hết các cuộc tấn công đều nhắm vào 1 thiết giáp hạm duy nhất (Musashi). Ngoài việc 1 tuần dương hạm bị ngư lôi làm hư hỏng nặng, mọi tàu khác bao gồm cả Yamato vẫn còn đủ khả năng để chiến đấu.

Đệ Tam Hạm đội của Halsey đã bỏ lỡ trận chiến quan trọng nhất và tham gia vào trận chiến ngoài khơi Mũi Engaño, với Lực lượng phương Bắc của Ozawa, bao gồm 1 mẫu hạm chủ lực và 3 mẫu hạm hạng nhẹ. với tổng cộng 108 máy bay, 2 thiết giáp hạm, 3 tuần dương hạm hạng nhẹ và 9 khu trục hạm. Halsey tin rằng Lực lượng phương Bắc là mối đe dọa chính, đúng như mong đợi của người Nhật trong kế hoạch của họ. Halsey đã điều 3 nhóm của Lực lượng Đặc nhiệm 38, vốn áp đảo hoàn toàn Lực lượng Phương Bắc của Ozawa, với 5 mẫu hạm chủ lực, 5 mẫu hạm hạng nhẹ. cùng với hơn 600 máy bay, 6 thiết giáp hạm, 8 tuần dương hạm và hơn 40 khu trục hạm đi truy đuổi Ozawa. Halsey không nhận ra rằng ông đã điều 1 lực lượng lớn đi chỉ để tấn công 1 hạm đội mà sau đó được biết là mồi nhử vô hại.

Quyết định của Halsey đã mở rộng cánh cửa cho Kurita vào vịnh Leyte. Ban đầu khi Kurita rút lui, người Mỹ cho rằng lực lượng Nhật Bản đang rút lui hẳn khỏi trận chiến. Cuối cùng, Kurita quay lại và đi qua eo biển San Bernardino dưới sự che trở của màn đêm 1 cách an toàn, với ý định tiêu diệt lực lượng đổ bộ của Mỹ. Chỉ có những đội Taffy, có nhiệm vụ hỗ trợ cho lực lượng đổ bộ của Đệ Thất Hạm đội, là chắn đường Kurita. Đội tàu này vốn chỉ được trang bị vũ khí để tấn công các mục tiêu trên mặt đất và tàu ngầm dưới sự bảo vệ của các mẫu hạm thuộc hạm đội của Halsey, chứ không phải đối đầu với các thiết giáp hạm và tuần dương hạm của Kurita. Sai lầm của Halsey đã dẫn đến 1 trận chiến không cân sức nhưng hào hùng của những con tàu mỏng manh, nhỏ bé suốt 3 giờ đồng hồ với hạm đội hùng mạnh của Kurita.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Hải chiến ngoài khơi Samar http://www.bosamar.com/pages/ctu7741_action_report http://www.bosamar.com/pages/ctu7742_action_report http://www.bosamar.com/pages/cve68_action_report http://www.bosamar.com/pages/cve73 http://www.bosamar.com/pages/dd557_loss_report http://www.bosamar.com/pages/harms# http://www.combinedfleet.com/noshiro_t.htm http://www.militaryfactory.com/ships/detail.asp?sh... http://www.navweaps.com/Weapons/Gun_Data_p2.php http://www.navweaps.com/index_oob/OOB_WWII_Pacific...